I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 VÀ SỰ RA ĐỜI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA - SỰ KIỆN CHÍNH TRỊ TRỌNG ĐẠI CỦA DÂN TỘC TA
1. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Từ đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Beclin. Trước tình hình đó, tháng 02/1945, Ban Thường vụ Trung ương đã họp và nhận định: “Kẻ thù số 1 của các dân tộc Đông Dương lúc này không phải là tất cả chủ nghĩa đế quốc mà chỉ là đế quốc - phát xít, đặc biệt là phát xít Nhật - đế quốc Pháp”. Hội nghị chỉ rõ toàn bộ công tác của Đảng trong lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến và sự kiện ngày 9/3/1945, Nhật hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương, tạo thời cơ ngàn năm có một để chúng ta tổ chức tổng khởi nghĩa. Từ tối ngày 9 đến 12/9/1945 tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp và ra Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta!”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang cướp kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc, mở đường, đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, phát động chiến tranh du kích ở những nơi có đủ điều kiện, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng.
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình cách mạng trong nước đã có sự phát triển lớn mạnh, sôi sục, rộng khắp và bối cảnh quốc tế thuận lợi, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại chiến khu Tân Trào (tháng 8/1945) đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”, vì vậy phải “kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những Ủy ban nhân dân ở những nơi làm chủ” tất cả vì mục tiêu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Vào lúc 23 giờ, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân khởi nghĩa; ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và Lệnh Tổng khởi nghĩa; quyết định Quốc kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban
Dân tộc giải phóng Trung ương (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời ra lời kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. Cuộc Tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14/8 đến 18/8/1945 đã giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An. Ngày 19/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Bến Tre… Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thuộc về nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh khổng lồ của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam.
2. Nhân dân Quảng Nam nhạy bén, chớp thời cơ giành chính quyền tháng 8 năm 1945
Những năm 1939 - 1944, phong trào cách mạng ở Quảng Nam gặp nhiều khó khăn do sự khủng bố gắt gao của thực dân Pháp; nhiều lần tổ chức đảng mất liên lạc với Trung ương và bị bể vỡ. Tuy nhiên, với tinh thần và ý chí cách mạng kiên cường, từ một vài đảng viên và chi bộ đảng ở cơ sở, các đồng chí liên tục liên lạc, kết nối với các đảng viên cốt cán trong tù để hoạt động, tổ chức đảng tiếp tục được gầy dựng và mở rộng.
Tháng 4 năm 1944, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được thành lập gồm 3 đồng chí. Sau có, cấp ủy đã được thành lập trong các phủ, huyện Tam kỳ, Hội An, Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn, Thăng Bình; lực lượng đảng viên ngày một tăng lên. Tháng 2 năm 1945, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị, xác định nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải lập lại tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh các huyện. Nhận thức được nhiều chủ trương quan trọng, trong đó quan trọng là bản Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, Tỉnh ủy xác định tập trung lực lượng hướng vào mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng vào tháng 5 năm 1945 đã quyết định kiện toàn Mặt trận Việt Minh tỉnh, lấy mật danh là Việt Minh Vụ Quang và củng cố hệ thống từ cơ sở lên phủ, huyện. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh xây dựng khu căn cứ cách mạng từ Duy Xuyên - Quế Sơn - Giằng; đẩy mạnh móc nối xây dựng cơ sở trong thành phố Đà Nẵng, vùng xung yếu, vùng núi; đón tiếp tù chính trị trở về bố trí tham gia công tác và liên lạc với các nhà tù để tìm cách đưa cán bộ ra hoạt động. Sau hội nghị, Đảng bộ tỉnh tích cực đẩy nhanh chuẩn bị về vũ trang khởi nghĩa; nhóm Tân lập hiến bị tẩy chay, tổ chức thân Nhật bị cô lập. Tháng 6 năm 1945, Tỉnh ủy chủ trương phát triển đội tự vệ vũ trang cơ sở, xây dựng đội du kích Vũ Hùng thành lực lượng nòng cốt của tỉnh và bổ sung nhiều đảng viên cốt cán, tù chính trị vào Ban Chấp hành Việt Minh Vụ Quang.
Đầu tháng 7 năm 1945, phong trào Việt Minh ở các tỉnh Trung Trung bộ lên cao; ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) lan rộng, các Tỉnh ủy Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quãng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa thống nhất tổ chức cuộc họp liên tịch để bàn kế hoạch phối hợp khởi nghĩa. Sau hội nghị các tỉnh miền Trung Trung bộ, cuộc khởi nghĩa ở Quảng Nam phát triển khẩn trương, sôi nổi. Các tổ chức lãnh đạo và lực lượng khởi nghĩa hình thành và sẵn sàng hành động. Đầu tháng 8 năm 1945, hầu hết các tổng và phần lớn các xã trong tỉnh lập xong Ủy ban Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc; ta có cơ sở và tự vệ mật trong các công tư sở; ngay trong hàng ngũ của địch ta cũng có cơ sở trong đồn lính bảo an (Hội An), đồn bảo an binh Đà Nẵng, trong Sở hiến binh Nhật và một số lính lệ ở phủ, huyện.
Phong trào cách mạng toàn tỉnh và cả nước lên cao, bộ máy thống trị, tay sai của Nhật từ phủ, huyện đến cơ sở đã bị tê liệt, quần chúng được tập hợp dưới ngọn cờ hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa. Nhận thấy thời cơ đã đến, đêm 13, ngày 14/8/1945, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị đã xác định phát động toàn dân bạo động khởi nghĩa giành chính quyền. Mặc dù chưa nhận được mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc của Ủy ban khởi nghĩa Trung ương, nhưng chủ trương của Quảng Nam đã kịp thời và phù hợp. Tỉnh ủy chủ trương dự kiến giành chính quyền ở các phủ, huyện trước, rồi sau đó tập hợp lực lượng giành chính quyền ở tỉnh lỵ Hội An. Tuy nhiên, Quốc dân đảng và bọ phản đế dự định tối 17/8/1945 sẽ tổ chức mittinh tại Hội An để bày trò ra mắt Chính quyền độc lập, đón tiếp quân Đồng Minh, phá kế hoạch khởi nghĩa của Việt Minh. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy quyết định lệnh khởi nghĩa giành chính quyền ở Hội An vào đêm 17 rạng 18/8/1945; đồng thời mệnh lệnh khởi nghĩa ở các phủ, huyện. Chính quyền tỉnh lỵ về tay cách mạng vào sáng ngày 18/8/1945, tạo khí thế sôi nổi trong toàn tỉnh, lần lượt lan tỏa giành thắng lợi ở các phủ, huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Quế Sơn, Đại Lộc, chỉ trong vòng 1 ngày 18/8/1945. Đến 28/8/1945, cách mạng giành thắng lợi tại Quảng Nam, Đà Nẵng.
Ngày 2/9/1945, tại thị xã Hội An, Tỉnh ủy và Ủy ban Việt Minh tỉnh tổ chức mittinh mừng thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa và ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Nam thành công rực rỡ. Thắng lợi khởi nghĩa ngày 18/8/1945 của Quảng Nam là một trong những tỉnh khởi nghĩa sớm nhất thắng lợi trọn vẹn, góp phần hỗ trợ, thúc đẩy Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên toàn quốc giành thắng lợi trọn vẹn; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu tiên vào ngày 2/9/1945.
3. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
a) Nguyên nhân thắng lợi
Thứ nhất, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, tự chủ, sáng tạo, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp, linh hoạt. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua ba thời kỳ 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Qua đấu tranh gian khổ, hy sinh, Đảng ta đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng được lực lượng quần chúng hùng hậu, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phân hóa lực lượng kẻ thù, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt.
Biết kết hợp chặt chẽ linh hoạt đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Không chỉ chú ý đưa quần chúng vào các tổ chức chính trị, Đảng ta còn từng bước vũ trang cho quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng vũ trang đó được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng; được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, có chỗ đứng vững chắc là các căn cứ địa cách mạng. Vì thế, cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám, tuy ta chưa có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ loại lực lượng vũ trang phát triển khá rộng khắp nơi và đặc biệt, ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù. Dựa trên các ưu thế cách mạng đó, chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức khởi nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.
Thứ hai, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân ta. Cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ con người Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được nâng lên một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của một Đảng mác-xít chân chính. Đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, phương châm, phương pháp, sách lược cách mạng mềm dẻo, linh hoạt đã lôi cuốn, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất, thổi vào bầu nhiệt huyết, làm bùng cháy ngọn lửa cách mạng đang âm ỉ trong lòng mỗi người dân Việt Nam ta.
Thứ ba, biết chớp lấy thời cơ cách mạng chín muồi, lực lượng cách mạng đã được chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, biết sử dụng lực lượng cách mạng đúng lúc, kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của quần chúng giữ vai trò quyết định, kết hợp nông thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, từ cấp thấp đến cấp cao, khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, đó là những nguyên nhân chủ yếu cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi.
b) Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Bước ngoặt đó có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng.
Một là, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc trong gần một thế kỷ, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của một nước độc lập, quyết định vận mệnh của mình. Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào một cuộc trường chinh mới với những biến đổi cách mạng lớn lao và sâu sắc.
Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với những tư tưởng của Các Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi này, nước ta một trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hoài bão, ước mơ của biết bao thế hệ người Việt Nam xưa và nay…
Ba là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám góp phần khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của Cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản phát triển, nơi mắt xích trọng yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước phong kiến nửa thuộc địa để đưa dân tộc đó phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đây là sự phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Cách mạng Tháng Tám như một quả bom có sức công phá mạnh làm sụp đổ một mảng quan trọng thành trì của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức bóc lột vùng dậy, báo hiệu một kỷ nguyên mới của loài người: kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Chẳng những giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
c) Bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám được đúc kết rút ra những bài học sâu sắc nhất:
Thứ nhất, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, trước hết là có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong thật sự cách mạng, được vũ trang lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Kết quả là chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng cách mạng đã giành thắng lợi và xác lập chính quyền dân chủ nhân dân trên phạm vi toàn quốc. Thực tiễn lịch sử 90 năm qua lại càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng cách mạng luôn là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Muốn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng cần phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản của cách mạng đặt ra. Đó là quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; quan hệ giữa mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn; quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn các phương pháp đấu tranh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng Đảng và phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất; quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, độc lập tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình thế giới đem lại; quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ v.v…
Thứ hai, vấn đề giành và giữ chính quyền. Giành chính quyền, đó là mục tiêu của bất cứ một cuộc cách mạng nào. Nhưng cái độc đáo của Cách mạng tháng Tám, mang bản sắc Việt Nam, một sự sáng tạo của Đảng ta là không phải đợi đến khi phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc mới đặt vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân. Tin tưởng mạnh mẽ ở lực lượng cách mạng của nhân dân, ngay từ tháng 5/1941, tại Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang với các hình thức và quy mô thích hợp, giành chính quyền từng bộ phận, thành lập và mở rộng các căn cứ địa cách mạng, sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Ngay từ đầu chúng ta đã xác định việc giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng chính quyền của dân và phục vụ nhân dân, chính vì thế Đảng đã tập hợp, xây dựng lực lượng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn. Chính quyền lợi sống còn của cả dân tộc gắn liền với lợi ích của từng tầng lớp, từng người, quyền lợi cơ bản gắn liền với quyền lợi trước mắt đã động viên, thúc đẩy đông đảo quần chúng kiên trung, bất khuất, anh dũng xông lên đương đầu với những lực lượng thù địch hung bạo nhất. Nhờ đó đã góp sức cùng gần 5.000 đảng viên thời kỳ tiền khởi nghĩa, làm tròn sứ mệnh lịch sử, tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công mau lẹ và ngoạn mục.
Vận dụng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, thể hiện trong khẩu hiệu đấu tranh từng thời kỳ như: độc lập dân tộc, người cày có ruộng, 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, chủ trương phá kho thóc của Nhật cứu đói cho dân và hàng loạt sáng tạo của quần chúng khác. Đảng ta đã kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và đã biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp, đúng lúc để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy Nhà nước mới của dân, do dân và vì dân. Bạo lực cách mạng được sử dụng ở Cách mạng Tháng Tám chính là sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, gắn kết hai hình thức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng để tiến lên giành chính quyền.
Giành chính quyền đã khó nhưng việc củng cố chính quyền, bảo vệ và xây dựng chính quyền còn khó khăn hơn nhiều. Ngay Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Chính quyền cách mạng còn non trẻ, Đảng ta đã phải lãnh đạo nhân dân đương đầu với bao nhiêu thử thách. Ngân khố cạn kiệt; 20 vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc. Tất cả bọn chúng đều nhằm lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Để giữ vững chính quyền, Đảng, Nhà nước ta đã biết dựa vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất, tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận động nhân dân thực hiện tốt 3 nhiệm vụ cách mạng: chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Chính quyền cách mạng kịp thời ban hành các chính sách nhằm bồi dưỡng sức dân, thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, thi đua học chữ quốc ngữ, củng cố mở rộng khối đoàn kết dân tộc, lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946, tổ chức đánh bại âm mưu phản cách mạng, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Thứ ba, nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3 năm 1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
II. THÀNH TỰU 75 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC
1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế
a) Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sáng tạo, khéo léo, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, đi đến bến bờ vinh quang; lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai với phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6/1/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám và chính quyền còn non trẻ; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ; vừa kháng chiến vừa kiến quốc dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu! Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
b) Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng nhưng đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới. Toàn thể nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn địa của cách mạng cả nước; cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trải qua nhiều giai đoạn, nhân dân ta phải lần lượt đối phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, thâm độc, xảo quyệt của kẻ thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu anh dũng (1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Đối với cách mạng ở miền Bắc, Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960); đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961-1965); chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương (1965-1968); khôi phục và phát triển kinh tế, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1969-1973); khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975). Đối với cách mạng ở miền Nam, Đảng ta lãnh đạo đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, như “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) và “đánh cho ngụy nhào” (1973-1975). Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế, có tính thời đại sâu sắc.
c) Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước vào thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung trí lực, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, chúng ta gặp nhiều khó khăn lớn. Một mặt, chúng ta phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh; mặt khác, phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế; lại bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Mười năm cả nước tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội (1975-1985) là mười năm Đảng ta tìm tòi con đường đổi mới. Đây cũng là thời kỳ tư duy mới được hình thành từng bước bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu và khuyết điểm trong mười năm ấy đã để lại những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
2. Đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đưa ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua các kỳ đại hội, từ Đại hội lần thứ VII đến Đại hội lần thứ XII, Đảng luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từng bước củng cố và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Qua hơn 34 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, văn hóa xã hội không ngừng phát triển. Việt Nam đã vượt qua ngưỡng nước nghèo, chậm phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình; thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao, đặc biệt là những hiệu quả, thành công bước đầu trong công cuộc xây dựng, ổn định nền kinh tế và phòng chống đại dịch Covid-19 năm 2020...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Quảng Nam cùng với nhân dân cả nước cùng chung sức khôi phục, phát triển kinh tế; chăm lo đời sống giáo dục, xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Năm 1997, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quảng Nam được thành lập lại trên cơ sở chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Với những nỗ lực xây dựng không ngừng nghỉ, kinh tế - xã hội của Quảng Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển khá, diện mạo đời sống kinh tế, đô thị, nông thôn, miền núi có sự đổi thay với nhiều chủ trương, nghị quyết được đề ra và thực hiện bước đầu có hiệu quả. Từ năm 2016 đến nay, tỉnh đã có đóng góp vào ngân sách Trung ương; GRDP tăng trưởng cao ổn định; tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể; cơ cấu kinh tế dịch chuyển tích cực. Năm 2020, trước đại dịch Covid-19, tỉnh cũng đã thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, nỗ lực hạn chế thấp nhất tác động của dịch bệnh đối với kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời triển khai quyết liệt phòng, chống dịch, nhất là từ những ngày cuối tháng 7 khi trên địa bàn có bệnh nhân, và có sự lây lan trong cộng đồng.
III. PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 75 NĂM QUA, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. 75 năm qua, kể từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, nhiều bước ngoặt và vượt qua nhiều thử thách lớn, giành thắng lợi vĩ đại, đưa đất nước phát triển. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
2. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta tiếp tục vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng tiếp tục thực hiện, đó là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ”.
3. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013), thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phấn đấu thực hiện các mục tiêu: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước mắt, cần thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo “vừa hồng, vừa chuyên” đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, biến thách thức thành động lực cho sự phát triển, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
- Thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Coi trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 trong bối cảnh cả nước và các địa phương, đơn vị tổ chức Đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; trong hoàn cảnh đất nước phải mạnh mẽ, sáng tạo và hiệu quả trong thực hiện hai nhiệm vụ kép, chiến lược là đẩy mạnh phòng, chống đại dịch Covid - 19 và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, hạn chế thấp nhất những tác động đối với nền kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra, càng khơi dậy niềm tự hào, ý chí, quyết tâm của toàn dân tộc. Toàn đảng, toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.